Đừng dại nghi ngờ nhà khoa học xứ ta-Nguyễn Công Thảo
Họ thường là những kẻ “khác người”, “kì dị” từ cách ăn mặc đến hành vi. Ngôn ngữ họ nói như đến từ hành tình khác và thế giới thực tại dường như là quá xa lạ. Họ đã từng là cảm hứng cho không ít đạo diễn điện ảnh trong việc xây dựng nên những nam nhân vật “sợ” phụ nữ, “ngại” kết hôn, đầu tóc rối bù, quần áo luộm thuộm, đêm ngày trong phòng thí nghiệm với thực đơn chung thân là bánh mì hay mì tôm. Họ dường như đến từ thế giới khác, công việc của họ dường như kì bí và kết quả nghiên cứu thì người thường không bao giờ có thể hiểu được.
… nay
Những “phẩm chất” trên không hẳn là mô tả chính xác về các nhà khoa học trước đây. Nó có thể là kết quả của sự định kiến, việc khái quát hóa qua một vài trường hợp cá biệt. Không biết trong lòng công chúng, những định kiến ấy có còn không và còn ở mức độ nào, chỉ biết rằng, qua trải nghiệm thực tế của tác giả bài viết ở một trung tâm khoa học đầu não của cả nước, thì dường như đã có một sự thay đổi lớn.
Các viện nghiên cứu ở đây không còn là những “tháp ngà” âm u, rêu phong tường rủ. Hầu hết trụ sở các cơ quan mà tôi được biết đều nằm ở vị trí đắc địa, nơi hẳn nhiều doanh nghiệp thèm thuồng, nơi các nhà đầu tư bất động sản định danh là “đất vàng”. Đó đã bắt đầu là những tòa nhà cao tầng mang dáng vẻ của khách sạn 3 sao và nếu bước vào trong, bạn sẽ thấy một thế giới hiện đại chả kém là bao so với dòng chảy đang tấp nập ở bên ngoài. Cũng điều hòa mát đến tận từng ngóc ngách, cũng máy lau giày sành điệu bên những chiếc thang máy hàng hiệu. Máy tính bàn được trang bị cho từng nhà khoa học với đủ cả máy in, điện thoại, máy fax còn wifi thì phủ sóng ngang cùng ngõ hèm, nét căng.
Phần lớn các nhà khoa học mà tôi biết hiện nay còn trẻ, thậm chí là rất trẻ. Hầu như chưa ai có tóc bạc. Họ không hệ lập dị, cổ quái, mà đời, rất đời là khác. Bạn sẽ không có cơ hội phê phán trang phục của họ vì chúng chẳng bao giờ nhàu nhĩ, u ám. Bạn sẽ thấy cả một thế giới thời trang với nhiều trường phái khi nhìn vào cách họ ăn mặc. Không hề cắp ô đi làm mà trái lại họ cắp laptop, cắp iphone, ipad. Đố bạn tìm thấy bóng dáng chiếc xe đạp cà tàng nào trong bãi gửi xe nơi mà những con “giấc mơ” ngày xưa giờ phải tủi phận nằm im bên bao nàng tay ga thời thượng.
Đố bạn tìm thấy ai trong họ chưa có bằng đại học. Tiến sĩ, thạc sĩ là lẽ tất nhiên và bạn đừng có sửng sốt khi được giới thiệu với một tiến sĩ nào đó, người mà phải vài mùa xuân nữa mới tròn…30 tuổi. Nếu có lòng tự trọng cao, hẳn bạn sẽ xấu hổ khi nhìn vào hồ sơ của họ. Một cơ man là bằng, là chứng chỉ, là bằng khen, là danh hiệu. Quên tiếng Anh đi bởi ngay cả các chị lao công cơ quan họ cũng sẵn sàng “hello”, “thank you, how are you” với bạn và tin học ư, bạn đã bao giờ ngồi kiên trì “chém gió”, “chơi game”, “lướt báo”, “shopping” trên mạng được 8 tiếng một ngày, 5 ngày một tuần trong liền tù tì hàng chục năm không? Đừng bao giờ dại dột nghi ngờ thành quả lao động khoa học của họ bởi bạn sẽ phải im lặng trước hàng chồng bằng khen lao động tiên tiến, chiến sĩ thi đua, sáng tạo khoa học…
Và những con số biết nói…
Việt Nam hiện nay có xấp xỉ 9.000 giáo sư và phó giáo sư, 24.000 tiến sĩ và hơn 100.000 thạc sĩ. Con số này không ngừng gia tăng bởi chúng ta đã, đang và chắc chắn còn có thêm nhiều dự án, chương trình đạo tạo thạc sĩ, tiến sĩ. Theo thống kê Viện thông tin khoa học (ISI), từ năm 1996 đến 2011, cả nước có 13.172 ấn phẩm khoa học công bố trên các tập san quốc tế có bình duyệt. Điều đó có nghĩa mỗi năm chúng ta có khoảng 880 công trình xuất bản quốc tế và bình quân phải mất vài chục năm, mỗi tiến sĩ của ta mới sản xuất được một bài báo cho quốc tế.
Những con số thường khô cứng lắm, tương đối lắm, dễ gây tranh luận và phân trần. Vì thế, để hiểu thêm cần so sánh chúng với những con số khác. Cũng nguồn thống kê trên, trong cùng khoảng thời gian ấy, số ấn phẩm khoa học của cả nước chưa bằng 1/5 số công bố của trường ĐH Tokyo (69,806 ấn phẩm) và một nửa của trường ĐH quốc gia Singapore (28,070 ấn phẩm). Nếu ai đó bảo rằng thật bất công khi so sánh một nước nghèo như Việt Nam với các nước giàu có như Nhật Bản và Singapore, thì xin hãy nhìn sang các nước láng giềng. Số công trình xuất bản của hơn 24.000 tiến sĩ của chúng ta chỉ bằng khoảng 1/5 của Thái Lan (69.637), 1/5 của Malaysia (75.530), và 1/10 của Singapore (126.881). Trong khi đó, dân số Việt Nam gấp 17 lần Singapore, 3 lần Malaysia và gần gấp rưỡi Thái lan.
Nếu những con số kia vẫn chưa gợi lên cho bạn điều gì, xin kể thêm một câu chuyện có thật. Khoảng giữa năm 1998, tập san khoa học số 1 trên thế giới Science có một loạt bài điểm qua tình hình khoa học ở các nước châu Á, đặc biệt là Đông Nam Á. Trong loạt bài này, ngạc nhiên thay (hay không đáng ngạc nhiên thay),không có đến một chữ nào nói về khoa học ở Việt Nam. Thậm chí, hai chữ “Việt Nam” cũng không được nhắc đến.
Năm 2002, Chính phủ phê duyệt “Chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn 2020” với mục tiêu đến 2010, phải đáp ứng 40% -50% nhu cầu cơ khí cả nước, xuất khẩu đạt 30% giá trị sản lượng. Tuy nhiên, phần lớn các mục tiêu đề ra đều không đạt được. Thậm chí, có ngành còn tụt hậu hơn thời bao cấp. Về cơ bản, chúng ta xuất khẩu cho thế giới nguyên liệu thô, những mặt hàng đòi hỏi cơ bắp trong khi nhập về các sản phẩm mang hàm lượng chất xám cao.
Những con số trên không biết có đủ cho ta đưa ra liên tưởng gì đó về sự đóng góp của khoa học cho sự phát triển của nước nhà? Câu hỏi này có lẽ xin được gửi cho các nhà khoa học (trong đó có tôi) để tiếp tục tranh luận, trao đổi.
Nguyễn Công Thảo