Chúng ta tiến ra biển cần hợp kim nhôm
Với ngành hàng hải, hợp kim nhôm là nhu cầu đặc biệt.Vì nó có sức chju ăn mòn tốt, có trọng lượng nhẹ. Kinh nghiệm tích lủy nhiều năm cho thấy hợp kim nhôm sử dụng trong môi trường biển có độ an toàn và tin cậy cao trong điều kiện vật liệu chịu ứng suất đáng kể . Vì thế trong 40 năm trở lại đây hợp kim nhôm được sử dụng thường xuyên trong công nghiệp biển.
Trong khoảng 1970-1985 có khoảng 250 bến đậu tàu của Pháp được xây dựng cho khoảng nửa triệu du thuyền. Kết cấu của các bến đậu trên tiêu thụ hơn 10.000 tấn hợp kim nhôm.Các bến tàu xây dựng bằng hợp kim nhôm vừa đẹp vừa bền. Sức chịu ăn mòn tuyệt vời làm cho việc bảo dưởng trở nên không cần thiết.
Trong hơn 30 năm qua số lượng và kích cở tàu vỏ nhôm được phát triển ổn định.Trong những năm 1960, các nhà máy đóng tàu chỉ đóng các tàu hợp kim nhôm một thân dài 10m đến 15m. Tàu hai thân vỏ nhôm dùng vận chuyển hành khách đã thể hiện những tính ưu việt của nó. Sản xuất từ vài chiếc trong năm với chiều dài 20m đã tăng lên 30 chiếc trong năm 1988, trong đó có tàu dài trên 40m. Du thuyền có chiều dài trên 12m thường là vỏ hợp kim nhôm. Hợp kim nhôm còn dùng đóng thuyền buồm, tàu cá, các tàu phục vụ giàn khoan, các tàu hải quan, cảnh sát.
Ở Việt Nam công việc chuyển giao công nghệ gia công hợp kim nhôm thực sự bắt đầu từ 1994. Cuối năm 1995 , con tàu cao tốc hợp kim nhôm đầu tiên ở Việt Nam đã được Trung tâm Phát triển Công nghệ tàu thủythiết kế mang ký hiệu ST112.
Tàu có các thông số sau :
Chiều dài lớn nhất : 18,72m
Chiều rộng lớn nhất : 4,6 m
Chiều cao mạn : 2,4m
Mớn nước trung bình : 0,85m
Lượng rẽ nước ( DWT) : 25 tấn
Tốc độ thiết kế : 25 hải lý/ giờ
Tàu được lắp hai máy KTA-19M của hảng CUMMINS : công suất 2 x 550 mã lực.
Năm 1997 một loại xuồng vỏ hợp kim nhôm , kết cấu hàn đã được thiết kế và sản xuất hàng lọat đến năm 1998 đã đóng 80 chiếc, mang ký hiệu ST660
Xuồng có các thông số sau :
Chiều dài lớn nhất : 6,6m
Chiều rộng lớn nhất : 2,2 m
Chiều cao mạn : 1,0m
Công suất : 60 đến 140 mã lực
Tốc độ thiết kế : 22 đến 35 hải lý/giờ
Năm 1998 nhiều mẩu tàu vỏ hợp kim nhôm đã được Trung tâm phát triển Công nghệ tàu thủy thiết kế , sản xuất. Có tàu đã đạt tốc độ 35 hải lý/giờ.
Qua thông tin từ ông Hồ Quang Long ở Trung tâm phát triển Công nghệ tàu thủy chúng ta thấy nhu cầu tàu vỏ hợp kim nhôm của Việt Nam là rất lớn vì hai đồng bằng Nam Bộ và Bắc Bộ với những tuyến đuờng sông dày đặc. Tại sao chúng ta không tập trung trí tuệ phát triển hợp kim nhôm mà chuyên sản xuất ô xit nhôm để xuất khẩu?
Chúng ta không nên khai thác và xuất khẩu ồ ạt ô xít nhôm mà cần nghiên cứu đưa hàm lượng chất xám vào sản phẩm, sản xuất bằng được hợp kim nhôm để phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu.Dù có sản xuất hợp kim nhôm, khu tinh luyện quặng bằng nước và xút phải đặt ở hạ lưu tuyệt đối không đặt trên Tây Nguyên.
Kinh Tế Biển