Hội Biển Tp HCM góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp 1992
————————————————————————————————————–
Tham luận 1 của PGS-TS –Chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm
LIÊN HIỆP HỘI KHKT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HỘI KH-KT & KT BIỂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 2 năm 2013
Kính gửi: ỦY BAN DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992
GÓP Ý VỀ DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992
Các quốc gia dân chủ pháp trị trên thế giới đều coi Hiến pháp là đạo luật gốc, đạo luật cơ bản. Các nguyên thủ quốc gia sau khi trúng cử, khi nhận chức đều phải tuyên thệ trước Quốc Hội và quốc dân, trung thành tuyệt đối với Hiến pháp như Tổng thống Hiệp Chúng quốc Hoa kỳ, Tổng thống Liên bang Nga, Tổng thống cộng hòa Pháp,….
Là đạo luật mẹ của mọi đạo luật con về sau, nhưng nhìn chung Hiến pháp của các quốc gia không cố định bất di bất dịch mà được tu chỉnh (sửa đổi) tùy thuộc vào sự phát triển mọi mặt của xã hội dân sự quốc gia đó. Hiến pháp ổn định tương đối, lâu dài khi chính thể chính trị của quốc gia sinh ra nó và tôn sùng nó ổn định và phát triển như Mỹ, Anh….. Thông thường Hiến pháp được thay đổi hoàn toàn khi chính thể chính trị sinh ra nó sụp đổ hay bị thay thế một cách hòa bình như Liên bang Xô viết năm 1991 và các chính thể xã hội chủ nghĩa Đông Âu từ năm 1987-1990, các nước Bắc phi (Tuynidi, Ai cập, Lybi-a) đầu năm 2011, rồi Thái Lan sau các lần thay đổi Thủ tướng.
Việt Nam ta lần này là lần sửa đổi (tu chỉnh) Hiến pháp thứ tư kể từ Hiến pháp đầu tiên do lãnh tụ Hồ Chí Minh và cộng sự của Người xây dựng năm 1946 và được Quốc hội khóa I (1946) thông qua. Có thể nói Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là Hiến pháp tiến bộ đầu tiên của Đông Nam Á. Lãnh tụ Hồ Chí Minh sau hơn 30 năm đi khắp 5 Châu, 4 biển để tìm đường cứu nước Người đã trực tiếp tiếp xúc với nhiều quốc gia Âu, Mỹ, Á, Phi, đã gặp nhiều chính khách, các nhân sĩ, nhà văn ,…. của nhiều nước có chế độ chính trị khác nhau: Tư bản chủ nghĩa, Xã hội chủ nghĩa, Xã hội dân chủ, Quân chủ lập hiến… nên Người chắt lọc được những tinh hoa dân chủ tiến bộ trên hầu khắp Thế giới. Cộng tác và Người trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 và sau đó gồm nhiều trí thức, nhiều hiền tài của đất nước cũng đã từng học tập, làm việc và tiếp xúc với nhiều chế độ chính trị, nhiều chính khách tiến bộ, dân chủ có, bảo thủ, bảo hoàng có. Nhờ vậy nên ngay sau khi đọc Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 là Người xúc tiến ngay việc viết Hiến pháp và bầu Quốc hội Việt nam dân chủ công hòa để thông qua Hiến pháp. Bản Hiến pháp năm 1946 ngắn gọn gồm 7 chương với 70 điều nhưng nội dung rất đầy đủ chặt chẽ của một Hiến pháp Dân chủ, bình đẳng, pháp quyền. Ngay điều 1 của chương một xác định rõ: “Nước Việt Nam là một nước Dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
Tuy rằng phần rất lớn dân Việt nam năm 1946 còn mù chữ, hiểu biết về mọi mặt còn hạn chế, nhưng giàu lòng yêu nước và giác ngộ chính trị rất nhanh và khá cao, nên với Hiến pháp đầu tiên viết ngắn gọn, dễ hiểu, phổ thông họ đón chào với niềm huân hoan và tin tưởng tuyệt đối vào lãnh tụ Hồ Chí Minh và Nhà nước do Người sáng lập ra. Những nội dung cơ bản của Hiến pháp đầu tiên đó đã tồn tại cùng nhân dân và Đất nước suốt các cuộc kháng chiến chống Thực dân pháp và xâm lược Mỹ, tiếp đến là các cuộc kháng chiến chống bè lũ dân tộc cực đoan Khơ Me đỏ ở phía nam và tập đoàn lãnh đạo cường quyền, Xô vanh nước lớn, luôn coi thường, khinh miệt các nước lâm bang nhỏ yếu của Trung Quốc ở phía Bắc. Đất nước thắng lợi và phát triển, nhân dân ngày càng được mở rộng trí thức và tiến bộ nhiều mặt thì việc sửa đổi (tu chỉnh) Hiến pháp là điều cần làm và rất bình thường. Điều quan trọng nhất là việc thực thi Hiến pháp đó có nghiêm túc và thực chất hay không.
Với nội dung dự thảo của việc sửa đổi Hiến pháp năm 2013 chúng tôi xin đóng góp một số điểm sau đây:
Chương I:
+ Điều 13. Ngoài khoản 1 đến 4 đề nghị thêm: Quốc hội khóa gần nhất quyết định thêm:
5. Quốc hoa nước Việt Nam
6. Quốc phục nước Việt Nam
Chương II:
+ Điều 21. nên thêm: “quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc”.
+ Điều 26. cần thêm “lập đảng phái” sau cụm từ “lập hội”.
+ Điều 28. nên sửa: Công dân đủ 18 tuổi trở nên có quyền bầu cử, đủ 21 tuổi có quyền ứng cử vào Hội đồng nhân dân các cấp, đủ 25 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội.
+ Điều 42. Thêm: Bậc tiểu học và Trung học cơ sở là bắt buộc, học sinh không phải trả học phí.
Chương III:
+ Điều 57. Thêm: Các chính quyền địa phương không được phép bán hoặc cho thuê dài hạn đất đai, hải đảo, đầm phá, cảng vịnh và các tài nguyên khác thuộc vùng lãnh thổ do địa phương quản lý khi chưa được Quốc hội chấp thuận.
+ Điều 58. Khoản 3 – Thay từ “thu hồi” bằng “trung mua”:
3. Nhà nước “trung mua” đất…..
+ Điều 55. Thêm khoản 3
3. Ngân sách Quốc gia hàng năm do Chính phủ đệ trình Quốc hội duyệt chi. Năm tài khóa lấy theo năm Dương lịch.
Điều 63. Sửa khoản 2 như sau:
2. Nhà nước và xã hội tôn vinh, khen thưởng, thực hiện các chính sách ưu đãi đối với người có công với nước, các hiền tài và các nhà kỹ thương xuất sắc.
Chương IV:
+ Điều 70. Viết lại:
Lực lượng vũ trang nhân dân gồm: Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, Bộ đội địa phương, dân quân tự vệ phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Đảng lãnh đạo, “có nhiệm vụ …., bảo vệ Nhân dân, bảo vệ Nhà nước và Đảng lãnh đạo….. và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”.
+ Điều 74.
Thêm: – Quốc hội được cử tri bầu trực tiếp theo hình thức phổ thông đầu phiếu. Số lượng đại biểu theo số cử tri, cứ 30.000 đến 35.000 cử tri bầu 1 đại biểu. Dân tộc thiểu số cứ 10.000 cử tri bầu 1 đại biểu. Người đặc biệt hiền tài được Hội đồng bầu cử và Ban thường vụ Quốc hội đương nhiệm đặc cử.
– Số đại biểu Quốc hội (nghị sĩ) mỗi khóa phải có từ 51% trở lên không dự các cương vị hành pháp và tư pháp đầu ngành từ cấp tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương trở lên.
– Được quyền vận động bầu cử theo luật định.
+ Điều 98. Thêm:
Trong trường hợp khuyết cả Chủ tịch nước và Phó chủ tịch nước thì trong thời gian không dài hơn 2 tuần làm việc Ban thường vụ Quốc hội phải bầu vị chủ tịch tạm quyền cho đến khi Quốc hội bầu được chủ tịch nước mới.
Chương XI:
+ Điều 124. Khoản 4 sửa lại câu cuối cùng:
Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp là bắt buộc và do Hội đồng Bầu cử phối hợp với Hội đồng Hiến pháp thực hiện theo luật định.
Cần thêm một điều vào vị trí thích hợp: Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng, Viện trưởng viện kiểm soát nhân dân tối cao và Chánh án tòa án nhân dân tối cao khi nhậm chức, phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp.
Ngoài những nội dung góp ý về sửa đổi, chúng tôi có một số kiến nghị dưới đây:
– Một: Đã có nhiều đề xuất, kiến nghị về tu chỉnh Hiến pháp lần này (2013) của các nhà khoa học, nhà hoạt động chính trị và cán bộ hưu trí về việc khôi phục lại tên nước: “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” được quy định trong điều 1 chương I của Hiến pháp năm 1946. Qua 3 lần sửa đổi trước đều không thực hiện khoản c điều 70 chương 7 của Hiến pháp năm 1946. Họ có nhiều lý do để biện minh cho chính kiến của mình là hợp Hiến. Thiết nghĩ Ban soạn thảo Hiến pháp sửa đổi 2013 cũng cần suy tính thật khách quan. Chúng tôi đề nghị:
Lần này nên trưng cầu ý dân có khôi phục lại tên nước như Hiến pháp 1946 hay không? Việc làm này không tốn kém và khó khăn, chỉ cần Nhà nước quyết tâm và thấy cần phải làm là được.
– Hai: Có một số chính kiến, đề nghị bỏ điều 4. Ai cũng biết: Từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay, Đảng cộng sản Việt Nam thực sự là Đảng cầm quyền. Đảng đã lãnh đạo và dấn thân cùng nhân dân Việt Nam dành thắng lợi vẻ vang trong đấu tranh vũ trang, gạt bỏ hết nhiều kẻ thù tàn bảo, dã man, luôn bóc lột khinh miệt và làm nhục nhân dân Việt Nam, để xây dựng nên nước Việt Nam thống nhất, Bắc – Trung – Nam liền một cõi, có vùng đất, vùng trời, vùng biển, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế rộng lớn theo luật biển UNCLOS – 1982; luật pháp quốc tế hiện hành và tập quán làm ăn ngàn đời của người Việt Nam. Đảng cũng đã lãnh đạo và cùng toàn dân Việt Nam xây dựng nên hệ thống chính trị ổn định và tương đối hoàn thiện như ngày nay. Xây dựng nền kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ có bước phát triển tuy chưa nhanh, bền vững và hoàn mỹ nhưng thật sự đã có nhiều thành tựu tiến bộ đáng ghi nhận.
Tuy nhiên tình hình hiện nay như Nghị quyết số 4 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã thừa nhận. Chúng ta hãy chờ đợi sự đấu tranh để làm lành mạnh và trong sạch của Đảng cầm quyền. Họ làm được điều đó thì uy tín và và năng lực lãnh đạo quản lý đất nước của họ sẽ được khôi phục như những thời kỳ cách mạng đầy cam go, thử thách, vận mệnh độc lập dân tộc như “chỉ mành treo chuông ” mà Đảng cộng sản đã từng lãnh đạo nhân dân vượt qua.
Nếu họ không làm được thì nhân dân lao động, tiến bộ sẽ phán xét. Vì vậy việc giữ lại điều 4 chương I cũng là hợp lý trong bối cảnh Đất nước hiện nay.
– Ba: Nền chính trị nước ta hiện nay nên “đa đảng” hay “độc đảng”?
Trên chính trường của hơn 190 quốc gia hiện nay trong LHQ có nhiều nước đa đảng, nhưng cũng có không ít nước độc đảng hoặc không đảng. Thiết nghĩ nền chính trị thế giới cũng giống như một vười hoa nhiều sắc hoa, hay giống như nền văn hóa đa sắc tộc, đa vùng miền của thế giới. Việc các quốc gia lựa chọn nền chính trị nào nên để nhân dân quốc gia đó tự do định đoạt, không nên có sự áp đặt từ bên ngoài như thời chủ nghĩa thực dân cũ rồi chủ nghĩa thực dân mới trước đây. Khi nhân dân đã có văn hóa, hiểu biết được mở rộng, giác ngộ chính trị được nâng cao, họ sẽ biết chọn cho mình chế độ chính trị tốt đẹp nhất qua hình thức đấu tranh dân chủ và bầu cử mở.
Nước Việt Nam ta năm 1946 là chính thể đa đảng gồm Đảng cộng sản, Đảng xã hội, Đảng dân chủ, Quốc dân đảng của ông Nguyễn Hải Thần và vài đảng nhỏ khác nữa. Trong Quốc hội năm 1946, tuy không có đại biểu của Quốc dân Đảng được bầu, nhưng để đoàn kết toàn dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị mời hơn 70 đại biểu của Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội vào Quốc Hội. Và diễn biến của lịch sử mọi người đã rõ: Đảng cộng sản Việt Nam vẫn là Đảng duy nhất đứng vững để lãnh đạo nhân dân tiến lên và trở thành Đảng cầm quyền không có sự tranh chấp. Vì sao? Vì Đảng thật sự vì dân, vì nước. Ngoài quyền lợi của nhân dân Đảng không có một đặc quyền, đặc lợi nào.
Liệu giai đoạn hiện nay Đảng cộng sản Việt Nam có làm theo Lãnh tụ Hồ Chí Minh và các vị cộng sự của Người như giai đoạn 1946-1954 được không: Tất nhiên mỗi thời kỳ có hoàn cảnh và điều kiện khác nhau, nhưng chân lý là không đổi.
– Bốn: Đề nghị kéo dài thời gian lấy ý kiến đóng góp của các cá thể, tập thể và chủ thể cho bản Hiến pháp lần này nên đến cuối năm 2013, chí ít cũng nên kéo dài đến hết quý II/2013. Với điều kiện không gian và thời gian hiện nay không nên vội vàng chỉ làm trong 1 quý mà quý đó lại có Tết Quý Tỵ đã mất gần 1 tháng nghỉ tết, lễ hội, họp hành. Nên đẩy mạnh các hình thức tuyên truyền, giới thiệu, so sánh, phân tích những cái hay, cái mới, cái hạn chế của các Hiến pháp trước đây và Dự thảo hiện nay và một số Hiến pháp của các nước có chế độ chính trị khác nhau trên thế giới. Đây cũng là việc làm nâng cao dân trí, phát hiện nhân tài có tâm, có đức có hoài bão xây đắp một nước Việt Nam Hòa Bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh như Bác Hồ từng mong muốn./.
Hội KH-KT và KT Biển Tp. HCM
PGS-TS-NGND Lê Kế Lâm
——————————————————————————————————————.
Tham luận 2 của Thuyền trưởng Viễn dương Nguyễn Văn Trọng
được đào tạo tại miền Bắc XHCN
BẢN GÓP Ý
HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
NĂM 1992 (SỬA ĐỔI NĂM 2013)
Tài liệu tham khảo và một số quan điểm dẫn đường:
Gíao trình Luật Hiến Pháp Việt nam Đại học Luật Hà Nội
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng cộng sản Việt nam
Một số quan điểm dẫn đường:
Mọi quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân.
Nhà nước ta là Nhà nước của dân do dân và vì dân.
Chỉ có toàn dân mới có quyền lực tối cao, quyền của các cơ quan Nhà nước kể cả cơ quan dân cử, Quốc hội là quyền do dân trao cho, cho nên đối với những vấn đề quan trọng, ảnh hưởng đến đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân phải trưng cầu ý kiến và được đa số nhân dân đồng tình trước khi quyết định, ban hành.
Chế ước quyền lực Nhà nước luôn là cần thiết cho mọi chế độ dân chủ
Phải trở lại cội nguồn, Hiến pháp là bản khế ước xã hội giữa Chính quyền và nhân dân để chống lạm dụng quyền lực Nhà nước.
Làm ra một Hiến pháp cụ thể thực sự dân chủ, dành mọi quyền lực nhà nước về tay nhân dân là một biện pháp chế ước quyền lực Nhà nước, bảo đảm dân chủ cơ bản, hữu hiệu và lâu dài nhất
Chế ước quyền lực Nhà nước, trao quyền về tay nhân dân bằng những quy phạm pháp luật cụ thể, rỏ ràng đặc biệt là trong Hiến pháp chắc chắn sẽ tránh được tranh giành quyền lực trong nước, hạn chế tối đa tham nhũng và những hiện tượng xấu khác trong Chính quyền
Lịch sử và thực tế cho thấy: ngày nay chỉ có Đảng cộng sản Việt nam là lực lượng có thể lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt nam vấn đề chỉ là Đảng lãnh đạo như thế nào là đúng đắn và phải quy định thành quy phạm pháp luật cụ thể trong Hiến pháp. …
Ý kiến góp ý cụ thể vào 24 Điều : 2 , 3 , 4 , 6 , 7 , 16 , 28 , 29 , 31 , 38 , 42 , 64 , 74 , 75, 88 , 92 , 98 , 99 , 100 , 101 , 103 , 105 , 121 , 124.
Ý kiến góp ý được đưa vào các Điều trên và viết lại các Điều đó như sau :
LỜI NÓI ĐẦU (Nên viết cô đọng ngắn gọn lại)
Điều 2 (sửa đổi, bổ sung Điều 2)
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rỏ ràng giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Điều 3 (sửa đổi, bổ sung Điều 3)
Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dân chủ gắn liền với công bằng xã hội phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực chính trị , kinh tế , văn hóa , xã hội thông qua hoạt động của Nhà nước do dân cử ra bằng hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, phải được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo đảm, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
Điều 4 (sửa đổi, bổ sung Điều 4)
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt nam.
2. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng chỉ đạo tư tưởng, chủ trương, đường lối đúng đắn, bằng đề xuất những biện pháp tiên tiến phù hợp với quy luật tự nhiên và xã hội, phù hợp với quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.
Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình .
Điều 6 (sửa đổi, bổ sung Điều 6)
Nhân dân thực hiện quyền làm chủ Nhà nước và xã hội bằng hình thức dân chủ trực tiếp trong việc bầu cử, giám sát và kiểm soát Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ.
Điều 7 (sửa đổi, bổ sung Điều 7)
1. Việc bầu cử đại biểu Quốc hội , đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
2. Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ bị cử tri bãi nhiệm khi đại biểu đó không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
Điều 16 (mới)
1. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền và lợi ích chính đáng của người khác.
2. Không ai được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Điều 28 (sửa đổi, bổ sung Điều 54)
Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi ba tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp.
Điều 29 (sửa đổi, bổ sung Điều 53)
1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của địa phương và cả nước.
2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân thường xuyên và dễ dàng tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân.
Điều 31 (sửa đổi, bổ sung Điều 74)
1. Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật.
3. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.
Điều 38 (sửa đổi, bổ sung Điều 55, Điều 56)
1. Công dân có quyền làm việc, lựa chọn việc làm, nghề nghiệp và nơi làm việc.
2. Nghiêm cấm các hành vi phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng người lao động chưa thành niên.
Điều 42 (sửa đổi, bổ sung Điều 59)
Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập. Nhà nước, Gia đình và Nhà trường chịu trách nhiệm bảo đảm mọi người sinh ra trên đất nước Việt nam ở độ tuổi đi học đều được học hành tốt.
Điều 64 (sửa đổi, bổ sung các điều 30, 31, 32, 33 và 34)
1. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực phát triển của đất nước. Nhà nước và xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhân văn, dân chủ, tiến bộ; bảo tồn, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa của các dân tộc Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
2. Phát triển văn học, nghệ thuật đáp ứng nhu cầu tinh thần đa dạng và lành mạnh của nhân dân, góp phần bồi dưỡng nhân cách và tâm hồn của người Việt Nam; phát triển các phương tiện thông tin đại chúng đồng bộ, hiện đại, đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân dân và phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội.
3. Xây dựng gia đình truyền thống Việt Nam có đời sống ngày càng giàu mạnh, có văn hóa ngày càng tiến bộ; xây dựng con người Việt Nam hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc, dễ hòa đồng, thân thiện, năng động, tự lực, tự cường và luôn có ý chí vươn lên
4. Nghiêm cấm hành vi lợi dụng hoạt động văn hóa, thông tin làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam, truyền bá tư tưởng , xuất bản phẩm và các hình thức khác có nội dung phản động, đồi trụy; mê tín, dị đoan.
Điều 74 (sửa đổi, bổ sung Điều 83)
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát đối với hoạt động của Nhà nước sau khi trưng cầu ý kiến và được đa số nhân dân đồng tình.
Điều 75 (sửa đổi, bổ sung Điều 84)
Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật ;
2. Thực hiện quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập; Thường xuyên báo cáo với toàn dân về những việc quan trọng và trưng cầu ý kiến, khi được đa số nhân dân đồng tình mới ra quyết định.
3. Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách và nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế – xã hội của đất nước sau khi trưng cầu ý kiến và được đa số nhân dân đồng tình;
4. Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định nguyên tắc phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán và phân bổ ngân sách trung ương; phê chuẩn quyết toán ngân sách trung ương; xem xét báo cáo tổng hợp dự toán và quyết toán ngân sách nhà nước sau khi trưng cầu ý kiến và được đa số nhân dân đồng tình;
5. Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước sau khi trưng cầu ý kiến và được đa số nhân dân đồng tình;
6. Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước, chính quyền địa phương và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập sau khi trưng cầu ý kiến và được đa số nhân dân đồng tình;
7. Thay mặt nhân dân cả nước bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, các Phó Chủ tịch Quốc hội, các Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, các Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán Nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, danh sách thành viên Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia sau khi trưng cầu ý kiến và được đa số nhân dân đồng tình;
8. Lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, thông báo với toàn dân và trưng cầu ý kiến nhân dân để ra các quyết định .
9. Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật sau khi trưng cầu ý kiến và được đa số nhân dân đồng tình;
10. Bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội sau khi trưng cầu ý kiến và được đa số nhân dân đồng tình;
11. Quyết định đại xá sau khi trưng cầu ý kiến và được đa số nhân dân đồng tình;
12. Quy định hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước sau khi trưng cầu ý kiến và được đa số nhân dân đồng tình;
13. Quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia sau khi trưng cầu ý kiến và được đa số nhân dân đồng tình;
14. Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế về chiến tranh và hòa bình, các vấn đề liên quan đến chủ quyền quốc gia, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tư cách thành viên của Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực, thương mại quốc tế sau khi trưng cầu ý kiến và được đa số nhân dân đồng tình;
Điều 88 (sửa đổi, bổ sung Điều 86)
1. Quốc hội làm việc thường xuyên, Đại biểu quốc hội chuyên trách.
2. Để giử mối liên hệ chặt chẻ với cơ sở, giảm thời gian làm việc cho Đại biểu Quốc hội và tăng sức sống cho Quốc hội, sau hai năm rưỡi Quốc hội sẽ được bầu bổ sung một phần ba Đại biểu vào, thay cho một phần ba Đại biểu ra.
3. Quốc hội làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số
4. Trong trường hợp cần thiết, theo đề nghị của Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ hoặc của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội, Quốc hội quyết định họp kín.
5. Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa mới được triệu tập chậm nhất là sáu mươi ngày, kể từ ngày bầu cử đại biểu Quốc hội, do Chủ tịch Quốc hội khóa trước khai mạc và chủ tọa cho đến khi tuyên bố chuyển giao cho Quốc hội khóa mới.
Điều 92 (giữ nguyên Điều 102)
Chủ tịch nước do toàn dân bầu và mặc nhiên là Đại biểu Quốc hội.
Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội và toàn dân.
Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi kết thúc cuộc họp chuyển giao cho Quốc hội mới.
Điều 98 (giữ nguyên Điều 108)
Khi Chủ tịch nước không làm việc được trong một thời gian dài thì Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch.
Trong trường hợp khuyết Chủ tịch nước thì Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch cho đến khi toàn dân bầu Chủ tịch nước mới.
CHƯƠNG VII:
CHÍNH PHỦ
Điều 99 (sửa đổi, bổ sung Điều 109)
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước toàn dân, Quốc hội và báo cáo công tác với toàn dân, Quốc hội, và Chủ tịch nước.
Điều 100 (sửa đổi, bổ sung Điều 110)
Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
Cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do Quốc hội quyết định sau khi trưng cầu ý kiến và được đa số nhân dân đồng tình.
Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số.
Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước toàn dân,Quốc hội và báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với toàn dân, Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch nước.
Phó Thủ tướng giúp Thủ tướng làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng.
Khi Thủ tướng vắng mặt thì một Phó Thủ tướng được Thủ tướng ủy nhiệm thay mặt lãnh đạo công tác của Chính phủ.
Thành viên Chính phủ chịu trách nhiệm cá nhân trước Chính phủ, Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách, cùng các thành viên khác chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ.
Điều 101 (sửa đổi, bổ sung Điều 112)
Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1 . Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật , nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội , lệnh, quyết định của Chủ tịch nước ; trình dự án luật , pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội , Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
2 . Thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia, xây dựng và tổ chức thực hiện chế độ công vụ; quản lý nhà nước về cán bộ, công chức, viên chức; phân công, phân cấp trong hệ thống hành chính nhà nước; lãnh đạo công tác của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp ; kiểm tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo luật định; trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính các đơn vị hành chính lãnh thổ; tổ chức và lãnh đạo công tác thanh tra , kiểm tra, chống quan liêu, tham nhũng , lãng phí trong bộ máy nhà nước và giải quyết khiếu nại, tố cáo; Đối với những quyết định quan trọng ảnh hưởng tới đời sông vật chất, tinh thần của nhân dân phải trưng cầu ý kiến và được đa số nhân dân đồng tình;
3. Bảo vệ tài sản, lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân;
4. Thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân; thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quản lý và bảo đảm sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân; phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và ngân sách nhà nước;
5. Thực hiện chính sách xã hội, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo;
6. Thống nhất quản lý về quốc phòng, an ninh, nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân; thi hành lệnh động viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ đất nước;
7. Thống nhất quản lý công tác đối ngoại; theo ủy quyền của Chủ tịch nước đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 93; đàm phán, ký, gia nhập, phê duyệt điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; tổ chức thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài;
8. Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Điều 103 (sửa đổi, bổ sung Điều 114)
Thủ tướng Chính phủ do toàn dân bầu và mặc nhiên là Đại biểu Quốc hội , là người đứng đầu Chính phủ.
Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Quyết định định hướng, điều hành hoạt động của Chính phủ; lãnh đạo hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của nền hành chính quốc gia sau khi trưng cầu ý kiến và được đa số nhân dân đồng tình;
2. Đề nghị Quốc hội thành lập hoặc bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ; trình Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, thành viên khác của Chính phủ; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thứ trưởng và chức vụ tương đương trong các cơ quan của Chính phủ; phê chuẩn việc bầu, miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sau khi trưng cầu ý kiến và được đa số nhân dân đồng tình;
3. Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ văn bản của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên ; đình chỉ việc thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ;
4. Chỉ đạo việc đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước, đàm phán, ký hoặc gia nhập điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; chỉ đạo thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;
5. Thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng, ảnh hưởng đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Điều 105 (sửa đổi Điều 115, Điều 116)
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của luật và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó sau khi trưng cầu ý kiến và được đa số nhân dân đồng tình;
Điều 121 (mới)
1. Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập, gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên.
2. Hội đồng bầu cử quốc gia tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; Chủ tịch Quốc hôi, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
3 . Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng bầu cử quốc gia và số lượng, nhiệm kỳ của thành viên Hội đồng bầu cử quốc gia do luật định.
Điều 124 (sửa đổi, bổ sung Điều 147)
Việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp được quy định như sau:
1. Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp .
Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành;
2. Quốc hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp. Thành phần, số lượng thành viên, nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban dự thảo Hiến pháp do Quốc hội quyết định sau khi trưng cầu ý kiến và được đa số nhân dân đồng tình;
3 . Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến nhân dân và trình Quốc hội về dự thảo Hiến pháp;
4. Dự thảo Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định sau khi trưng cầu ý kiến và được đa số nhân dân đồng tình;
Thuyền trưởng Nguyễn Văn Trọng
Hội Biển Tp HCM
Tham luận 3 của nữ Tiến sĩ Bùi Thị Lạng được đào tạo tại Mỹ và là một trong những trí thức lớn trong chế độ Đệ nhất Cộng Hòa ở miền Nam Việt Nam.
GÓP Ý BẢN DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP 1992
Góp ý chung:
Nhìn chung tinh thần xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Bác Hồ khởi xướng từ 1930, tranh thủ đoàn kết dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ đã đạt; và tiếp tục phát triển con người, kinh tế xã hội lên nhiều trình độ khác xa thời kỳ 1946 của bản hiến pháp đầu tiên. Nguyên tắc này được triển khai cho phù hợp với thời kỳ chiến tranh và thiếu tự do, nay cần mở rộng dân chủ hơn trong thời hoà bình độc lập và giàu mạnh hơn.
Chế độ phát triển kinh tế xã hội từ dưới lên này phát huy dân chủ, cũng cần phối hợp với sự phát triển từ trên xuống khi chánh quyền đã xây dựng xong và càng vững chắc với tuổi, cho nên đội ngũ trí thức với tinh thần vô tư cần nhận thức và kết nối chặt hai luồng phát triển này của quốc gia.
Góp ý
Lời nói đầu:
Hơi dài dòng, hành văn cần xúc tích nhấn mạnh nguyên tắc hơn.
Chương II, điều 21:
Thêm “và mưu cầu hạnh phúc”
điều 26:
… lập hội, Thêm “lập đảng”
điều 28:
…đủ hai mươi lăm (25) tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội…
điều 34:
Nơi đô thị đông đúc hấp dẫn vào vỉa hè đường phố, nhiều lao động giản đơn như người thu mua ve chai (đồng nát), thiếu niên bán vé số với doanh thu không đủ sống, tạo nguy cơ tệ nạn/tội phạm trong giới nhập cư lây lứt trên vỉa hè.
Thêm kinh doanh “ đủ sống”
điều 38:
Nạn thất nghiệp chưa được giải quyết, thu nhập nghèo chưa được trợ giúp đầy đủ thì quyền làm việc không thực hiện được! cần thêm “bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp mức thu nhập yếu kém” vào mục an sinh ở điều 35.
điều 39:
Hiện nay số chị em bị gả bán ra nước ngoài lên đến hàng chục ngàn triệu cô dâu Hàn Quốc, Đài Loan…, nên cần ngăn cấm và giải quyết hệ quả cho họ và con lai! Thêm “nghiêm cấm gả bán phụ nữ”
điều 51:
Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam phải sẵn có đủ phương tiện tài chính để sống, tuân…
Chương III
điều 56:
Tệ nạn vào hè phố đô thị bán vé số, mua ve chai (đồng nát) dẫn đến nguy cơ tội phạm hè phố của nhóm (ngày càng tăng) nhập cư nghèo khổ, không đăng ký tạm trú, không nhận được trợ giúp an sinh. Cần cấm kinh doanh quá nhỏ nhưng rộng khắp.
điều 61:
Thêm bảo hiểm thất nghiệp để giải quyết tình trạng mất việc làm trong thời điểm kinh tế suy thoái.
điều 63:
kể cả an sinh xã hội cho nhóm di trú trái phép vào đô thị mưu sinh lây lứt ở hè phố.
điều 66. 2:
Không phải đóng học phí trong hệ phổ cập giáo dục.
điều 67. 3:
Trong dự án nghiên cứu liên ngành khoa học tự nhiên – khoa học xã hội, người ở địa bàn dân cư (ít học) đương nhiên được hướng dẫn vào từ lúc xây đựng đề cương nghiên cứu đến lúc hưởng lợi của kết quả.
điều 68. 2:
…bảo vệ môi trường, thế cân bằng từng hệ sinh thái ; quản lý… Thống nhất hành động như vậy thì mới đạt đựơc hiệu qủa.
Chương IV
điều 70:
Xếp thứ tự Tổ quốc và nhân dân, Đảng cộng sản Việt Nam;
Nhân dân, Nhà nước, Đảng
Chương V
điều 75. 15:
Quyết định biểu quyết, trưng cầu ý dân, phúc quyết của toàn dân.
Chương VI
điều 92:
Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội, toàn dân phúc quyết và định kỳ bỏ phiếu tín nhiệm.
Chương IX
điều 115. 1:
thành phố lớn trực thuộc trung ương có thêm nhiều thành phố vệ tinh.
Tp HCM, ngày 27 tháng 02 năm 2013
Bùi Thị Lạng
26 Bác Ái, kp 3, p. Bình Thọ, q. Thủ Đức
Tp. Hồ Chí Minh
Tham luận 4 của thuyền trưởng Nguyễn Công Hệ nguyên là một chiến sĩ hải quân Việt Nam.
CÔNG HÒA XÃ HÔI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ĐỘC LẬP TỰ DO HẠNH PHÚC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NGÀY 23/2/2013
Ý KIẾN ĐÓNG GÓP SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP 1992
KÍNH GƯI : QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM ,
BAN SOẠN THẢO HIẾN PHÁP 1992
DỰA VÀO ĐIỀU 2 HIẾN PHÁP SỬA ĐỐI 1992 :
‘…NHÀ NƯỚC XHCNVN LÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN CỦA NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN VÀ DO NHÂN DÂN ; TÂT CẢ QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC THUỘC VỀ NHÂN DÂN …”
TỐI XIN TRAO ĐỔI VÀI THIỂN Ý SAU :
THEO TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP NƯƠC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA BÁC HỒ ĐỌC NGÀY 2/9/1945 TẠI VƯỜN HOA BA ĐÌNH LÀ NGÀY THÀNH LẬP NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CÔNG HÒA, LÀ THẮNG LỢI VĨ ĐẠI CỦA CUỐC CÁCH MẠNG THÁNG 8/1945 ,NHÂN DÂN TA ĐÃ ĐÁNH ĐỔ THỰC DÂN PHÁP&NHẬT HƠN TÁM MƯƠI NĂM, ĐANH ĐỔ CHẾ ĐỘ QUÂN CHỦ HÀNG MẤY THẾ KỶ TỪ VUA BẢO ĐẠI, LẬP NÊN NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA , BẢN TUYÊN NGÔN CÓ CÂU :
“ … TẤT CẢ MỌI NGƯỜI ĐỀU SINH RA CÓ QUYỀN BÌNH ĐẲNG , TẠO HÓA CHO HỌ NHỮNG QUYỀN KHÔNG AI CÓ THỂ XÂM PHẠM , TRONG NHỮNG QUYỀN ẤY CÓ QUYỀN SỐNG , QUYỀN TỰ DO VÀ MƯU CẦU HẠNH PHÚC … “
“ … LỜI BẤT HỦ ẤY Ở TRONG BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP NĂM 1776 CỦA MỸ VÁ BẢN TUYÊN NGÔN NHÂN QUYỀN VÀ DÂN QUYỀN CỦA CÁCH MẠNG PHÁP 1791.. “
HIẾN PHÁP NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA ĐƯỢC QUỐC HỘI THÔNG QUA NGÀY 9/11/1946, LÀ MỘT BẢN HIẾN PHÁP TIÊN TIẾN NHẤT CHO MỘT NHÁ NƯƠC DÂN CHỦ LẬP HIÊN, MỘT NHÀ NƯỚC CỦA NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN, DO NHÂNDÂN, ; TẤT CẢ MỌI QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC THUỘC VỀ NHÂN DÂN, CỤ THỂ LÀ :
1-NHÂN DÂN PHÚC QUYẾT HIẾN PHÁP,( NHÂN DÂN CÓ QUYỀN LÂP HIẾN) HIẾN PHÁP LÀ LUẬT MẸ, BẤT KHẢ XÂM PHẠM , THỂ HIỆN QUYỀN LỰC CỦA NHÂN DÂN !!!;
2- NHÀ NƯỚC LÀ CÔNG BỘC CỦA DÂN,DO DÂN BẤU RA ĐỂ PHỤC VỤ NHÂN DÂN THỰC THI HIẾN PHÁP,
THEO CƠ CHẾ TAM QUYỀN PHÂN LẬP LÀ : CƠ QUAN LẬP PHÁP, HÀNH PHÁP , TƯ PHÁP VÀ TÒA BẢO HIẾN, ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THỦ HIẾN PHÁP, THEO DÕI GIAM SÁT LẪN NHAU,
CÓ THỂ NÓI : BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP “ NƯƠC VIỆT NAM ĐÂN CHỦ CỘNG HÒA VÀ BẢN HIẾN PHÁP 1946 LÀ THẮNG LỢI CỦA CUỘC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 LONG TRỜI LỞ ĐẤT CỦA TOÀN DÂN TÔC VIỆT NAM ,
LÀ MỘT THÀNH TỊU VĨ ĐẠI NHẤT TRONG LỊCH SỬ DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC CỦA DÒNG DÕI LẠC HỒNG VÀ CON ĐƯỜNG TƯƠI SÁNG CHO CÁC THẾ HỆ CON CHÁU TƯƠNG LAI.
TỐI XIN KIẾN NGHI :
1/GIỮ NGUYÊN TÊN NƯỚC : “ VIỆT NAM DÂN CHỦ CÔNG HÒA “
2/ HIẾN PHÁP SOẠN THẢO DỰA TRÊN “ HIẾN PHÁP 1946, ĐƯA RA TOÀN DÂN PHÚC QUYẾT .“
XIN TRÂN TRỌNG KIẾN NGHỊ, VÀ VÔ CÙNG BIẾT ƠN .
Thuyền trưởng NGUYỆN CÔNG HỆ
Hội Biển Tp HCM
Tham luận 5 của nhà nghiên cứu Đổ Thái BÌnh , chuyên gia về đóng tàu và nghiên cứu Biển Đông
GÓP Ý SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP 1992
Là một kỹ sư ,không đọc nhiều về các vấn đề xã hội ,lúc đầu tôi không rõ tại sao lại phải tổ chức góp ý sửa đổi hiến pháp 1992 vào lúc này ,một đạo luật ít được nói tới trong khi xã hội đang “ổn định” như các thông tin đại chúng phát đi hàng ngày , có vẻ chưa có nhu cầu bức thiết phải sửa đổi bô luật mẹ,bộ luật căn bản trong khi vô vàn các hành động vi hiến đều được thực hiện vô cùng “êm đẹp” tới mức nghệ thuật !
Nhưng ,được biết mong muốn người dân “mở miệng” như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở,nhận thấy mình chỉ biết vài chữ kỹ thuật nên cần thỉnh các bậc cao niên ,tôi đã giành thì giờ nghiên cứu quá trình xây dựng các hiến pháp 1945,1959,1980,1992 ,đọc kỹ “bảng so sánh giữa hiến pháp năm 1992 với dự thảo sửa đổi hiến pháp năm 1992” của Ủy ban dự thảo sửa đổi ,đọc các ý kiến khác nhau của nhiều các nhà khoa học xã hội ,trong đó có Nguyễn Đình Lộc ,đảng viên cộng sản,nguyên Bộ trưởng Tư pháp người đã được Nhà nước cho đi học về luật tại Liên Xô từ những năm 1950 và là người tham dự,chủ trì soạn thảo các hiến pháp nói trên,tôi đã nhận thấy cần có ý kiến mà tập trung ,cô đọng lại là tán thành 7 ý kiến mà chính Nguyễn Đình Lộc và 71 người cùng soạn thảo đã trao cho Ủy ban soạn thảo vào ngày 04/02/2013 tại Hà Nội .Tôi xin được trình bày lại như sau:
Kiến nghị thứ nhất về Lời nói đầu và về Chương I
Lời nói đầu của Dự thảo không làm rõ mục tiêu của hiến pháp và chủ thể quy định hiến pháp. Hiến pháp cần xác định mục tiêu trước hết là để bảo đảm sự an toàn, tự do và hạnh phúc của mọi người dân. Một bản hiến pháp tốt phải hạn chế sự lạm quyền của những người cầm quyền, tạo dựng khuôn khổ cho các sinh hoạt chính trị, kinh tế và văn hoá diễn ra một cách an bình và hiệu quả. Hiến pháp cũng phải hướng đến hạnh phúc của các thế hệ tương lai.
Quyền lập hiến (xây dựng, ban hành hay sửa đổi hiến pháp) là quyền sinh ra các quyền khác (lập pháp, hành pháp và tư pháp) phải thuộc về toàn dân, chứ không thể thuộc về bất kỳ một tổ chức hay cơ quan nào, kể cả Quốc hội. Lời nói đầu cần xác định rõ chủ thể quyết định, ban hành hiến pháp là nhân dân.
Lời nói đầu không phải là chỗ để tuyên dương công trạng của bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào.Nhân dân là người sang suốt đánh giá công trạng ,không cần những lời văn hoa sáo rỗng,thiếu khiêm tốn ,không đúng với tư cách của những người học trò của Chũ tịch Hồ Chí Minh.
Lời nói đầu của Dự thảo không đáp ứng được các yêu cầu trên nên chúng tôi đề nghị bỏ và thay bằng:
“Kế tiếp nền văn hiến và truyền thống bất khuất của các thế hệ tiền nhân đã dựng xây và bảo vệ đất nước, đã đấu tranh vì độc lập, tự do và hạnh phúc của nhân dân,vì một xã hội dân chủ, công bằng và pháp quyền, vì tự do và hạnh phúc của các thế hệ hiện tại và tương lai,chúng tôi, nhân dân Việt Nam, quyết định xây dựng và ban hành bản Hiến pháp này.”
Trong chương I, cần nhấn mạnh nguyên tắc chủ quyền nhân dân đòi hỏi phải tôn trọng ý của dân tộc. Nếu hiến pháp thực sự do nhân dân quyết định thì việc định trước vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội thuộc về một tổ chức chính trị hay một tầng lớp là trái với quyền làm chủ của nhân dân, quyền con người, quyền công dân và ngược với bản chất của một nhà nước pháp quyền.
Chủ thể nào lãnh đạo xã hội sẽ do nhân dân bầu chọn ra trong các cuộc bầu cử tự do, dân chủ, định kỳ. Một chính đảng thực sự có chính nghĩa, phục vụ lợi ích của nhân dân sẽ không lo bị thất bại trong các cuộc bầu cử như vậy. Việc đảng cầm quyền chấp nhận cạnh tranh chính trị là phù hợp với xu thế lịch sử, là điều kiện cho sự phát triển của đất nước, đáp ứng đòi hỏi của nhân dân.Kinh nghiệm rút ra từ các cuộc chuyển đổi từ các nước Đông Âu “XHCN anh em” đã cho ta những bài học quý báu về vấn đề này
Kiến nghị thứ hai về quyền con người
Một mục đích của việc thành lập Nhà nước là để bảo vệ các quyền đương nhiên của con người. Dự thảo đã điều chỉnh thứ tự để đề cao các quyền này so với Hiến pháp hiện hành, nhưng lại có nhiều điểm chưa phù hợp với các quy định và chuẩn mực quốc tế về quyền con người; như các quy định trong Dự thảo về giới hạn quyền (Điều 15), “không lợi dụng quyền con người, quyền công dân” (Điều 16), “quyền không tách rời nghĩa vụ” (Điều 20). Dự thảo còn quy định quá nhiều nghĩa vụ một cách tùy tiện (Điều 41, Điều 42, Điều 49,…). Việc nhấn mạnh trong Dự thảo các lý do về quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, ổn định chính trị, việc đưa cụm từ “theo quy định của pháp luật”, … nhằm hạn chế những quyền đó sẽ mở đường cho việc nhân danh hiến pháp để vi phạm quyền con người, đàn áp các công dân thực thi quyền tự do như đã diễn ra trong thực tế những năm qua ở nước ta.
Chúng tôi yêu cầu sửa Dự thảo theo đúng tinh thần của Tuyên ngôn về Quyền Con người năm 1948 và các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia,đặc biệt khi nước ta đã nằm trong Hội đồng Nhân quyền LHQ
Nếu các quyền này được ghi trong Hiến pháp mà không được thực thi nghiêm túc như hiện nay, thì việc quy định các quyền ấy cũng trở nên vô nghĩa. Vì vậy chúng tôi yêu cầu Hiến pháp quy định thành lập một Ủy ban Quốc gia về Quyền Con người hoạt động độc lập.
Kiến nghị thứ ba về sở hữu đất đai
Chế độ sở hữu tư nhân về đất đai đã tồn tại từ lâu trên đất nước ta. Quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân kể từ Hiến pháp Việt Nam 1980 là sự sao chép Hiến pháp Liên Xô, một điều hoàn toàn xa lạ với nhân dân Việt Nam và đã gây ra rất nhiều bất ổn xã hội. Điều 57 Dự thảo tiếp tục khẳng định đất đai “thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu” là duy trì quy định sai trái, bỏ qua những vấn đề ngày càng trầm trọng do quy định này gây ra mà hàng triệu khiếu nại, khiếu kiện về đất đai trong những năm qua chỉ là phần nổi của tảng băng chìm hết sức nguy hiểm.
Không thừa nhận sở hữu tư nhân, tập thể, cộng đồng về đất đai cùng tồn tại với sở hữu nhà nước là tước đoạt một quyền tài sản quan trọng bậc nhất của người dân. Đánh đồng sở hữu nhà nước với sở hữu toàn dân về đất đai là tạo điều kiện cho quan chức các cấp chính quyền tham nhũng, lộng quyền, bắt tay với nhiều tư nhân, doanh nghiệp cùng trục lợi, gây thiệt hại cho nhân dân, đặc biệt là nông dân.
Dự thảo còn “hợp hiến hóa” việc thu hồi đất, trong đó lại mở rộng phạm vi áp dụng cho các dự án phát triển kinh tế – xã hội; đây là một sự thụt lùi so với Hiến pháp 1992 và có thể gây bùng nổ bất ổn xã hội.
Vì thế chúng tôi kiến nghị sửa đổi Điều 57 của Dự thảo, trở lại như Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959. Có thể quy định như sau: “Sở hữu tư nhân, tập thể, cộng đồng và nhà nước về đất đai được tôn trọng. Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ và thống nhất quản lý đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản và các tài nguyên, nguồn lợi khác ở vùng biển, thềm lục địa, vùng trời và các tài sản khác do Nhà nước đầu tư.”
Thay thế quy định thu hồi đất bằng trưng mua đất và không áp dụng cho các dự án phát triển kinh tế-xã hội như nêu trong Điều 58 của Dự thảo.
Kiến nghị thứ tư về tổ chức Nhà nước
Tổ chức bộ máy Nhà nước phải phân biệt rạch ròi các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng như các cơ quan hiến định khác. Tất cả các cơ quan nhà nước phải tuân thủ Hiến pháp và luật. Các nhánh quyền lực ràng buộc, chế ước lẫn nhau nhưng không thể bị chi phối bởi bất kỳ một tổ chức hay cá nhân duy nhất nào, nghiêm cấm mọi sự độc quyền quyền lực. Đặc biệt, hệ thống tư pháp phải được bảo đảm trên thực tế quyền xét xử độc lập, chỉ dựa vào Hiến pháp và luật. Tòa án Hiến pháp phải được thành lập, có chức năng phán quyết, chứ không phải là tư vấn, kiến nghị như chức năng của Hội đồng Hiến pháp được quy định trong Dự thảo.
Kiến nghị thứ năm về lực lượng vũ trang
Hiến pháp đặt lợi ích của toàn dân lên trên lợi ích của bất kỳ một tổ chức hay cá nhân nào. Mọi hoạt động của các lực lượng vũ trang chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ quốc gia và phục vụ nhân dân. Lực lượng vũ trang phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành với bất kỳ tổ chức nào, như quy định tại Điều 70 của Dự thảo.
Kiến nghị thứ sáu về trưng cầu dân ý đối với Hiến pháp
Quyền lập hiến là quyền của toàn dân, phải phân biệt với quyền lập pháp của Quốc hội. Vì vậy phải có trưng cầu dân ý để phúc quyết Hiến pháp. Chúng tôi đề xuất quy định trong Hiến pháp: “Bảo đảm quyền phúc quyết của nhân dân đối với Hiến pháp, thông qua trưng cầu dân ý được tổ chức thật sự minh bạch và dân chủ với sự giám sát của người dân và báo giới.”
Kiến nghị thứ bảy về thời hạn góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp
Việc lấy ý kiến đóng góp của toàn dân về sửa đổi Hiến pháp là một việc hệ trọng đến vận mệnh quốc gia, phải được tiến hành một cách nghiêm chỉnh, không thể tắc trách, lấy lệ. Vì vậy, thời hạn lấy ý kiến của nhân dân chỉ trong vòng ba tháng là quá ngắn, dễ dẫn đến tình trạng làm một cách hình thức cho qua chuyện. Vì vậy chúng tôi kiến nghị gia hạn thời gian lấy ý kiến của nhân dân đến hết năm 2013, đồng thời khuyến khích đề xuất các dự thảo khác để Quốc hội, Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cùng toàn thể đồng bào tham khảo, so sánh, thảo luận nhằm xây dựng một bản hiến pháp phù hợp nhất cho quốc gia.
ĐỖ THÁI BÌNH Kỹ sư đóng tàu Ủy viên thường vụ Hội Biển Thành Phố Hồ Chí Minh
Điện thoại 098-886-4892 ;Địa chỉ:292 Nguyễn Tất Thành P.13 Quận 4;Email :binhthaido@gmail.com
Tham luận 6 của KS Doãn Mạnh Dũng
Chọn lựa giải pháp tối ưu trong khoa học và kinh tế phải bắt đầu từ Hiến pháp!
Giữa năm 1991, khi đất nước vừa mở cửa, tôi được cử tham gia một Liên doanh Hàng hải tại London. Tại Anh quốc, tôi đã đọc và biết được nước Anh đã từng gặp nhiều khó khăn kinh tế từ năm 1953 đến năm 1978: cán cân thương mại lúc âm, lúc dương.Năm 1977 , cán cân thương mại nước Anh + 7.362 triệu bảng vì nhờ sự thử nghiệm của IFM. Nhưng năm 1978 thì cán cân thương mại -1.126 triệu bảng. Nhưng từ năm 1979 cán cân thương mại nước Anh liên lục tăng vì nhờ khai thác mỏ dầu Biển Bắc nước Anh.
Những thông tin trên nhắc tôi rằng, việc định vị đúng vị trí cho nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam là việc có tính quyết định sự phát triển kinh tế Việt Nam, quyết định sự hồi phục nhanh của nền kinh tế và cuộc sống của số đông dân nghèo Việt Nam.
Rất tiếc, tài liệu phản biện của tôi viết về vị trí Nhà máy lọc dầu Dung Quất ngày 9/11/1997 đã không được quan tâm. Trước khi viết , 10/1997, tôi về khảo sát vịnh Dung Quất và đi đâu cũng thấy khẩu hiệu :
”Đảng vì dân , dân tin Đảng quyết tâm xây dựng Nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất”.
Để phản biện vị trí Nhà máy lọc dầu Dung Quất, bạn chỉ cần có trí thức phổ thông về chiều quay của bão ở bắc bán cầu và hiện tượng sông Trà Bồng đổ ra vịnh Dung Quất là đủ lý giải hiện tượng không an toàn của cảng và chi phí nạo vét hàng năm là vô cùng lớn.
Hơn nữa,con đê chắn sóng lớn nhất Đông Nam Á dài 1,6 km tại vịnh Dung Quất lại sai về hướng và làm tăng nhanh hiện tượng bồi lấp vịnh Dung Quất.
Chủ trương sai lầm trong hoạch định Nhà máy lọc dầu Dung Quất đã làm mất một cơ hội vô cùng quý báu của cả dân tộc về tài chính để cải thiện cuộc sống toàn dân và tăng cường khả năng phòng thủ của đất nước.
Cũng năm 1997 , tôi công bố công trình nghiên cứu cảng Trung chuyển Quốc tế Vân Phong.Nhưng dự án ít ai quan tâm và không được chấp nhận mô hình khu kinh tế mở Vân Phong. Hơn nữa, họ định bán cho Hàn Quốc làm nhà máy luyện thép POSCO. Nếu cảng Vân Phong hình thành sớm thì tính hình kinh tế miền Trung và hàng hải Việt Nam đã khá lên nhiều. Song quan trọng hơn Biển Đông sẽ được tự động quốc tế hóa nhờ nhiều quốc gia có lợi ích lại vịnh Vân Phong.
Chỉ nêu hai chuyện trong ngành hàng hải Việt Nam đã giúp chúng ta hiểu cái giá mà cả dân tộc phải trả cho sự sai lầm trong chọn lựa giải pháp tối ưu trong khoa học và kinh tế.
Ai chịu trách nhiệm cho những sai lầm trên ?
Trước hết là “ những trí thức” thiếu năng lực thật sự dù họ có bằng cấp và học vị rất cao. Họ đã sử dụng uy tín Đảng như lá chắn cho mọi sự phản biện khoa học để đạt lợi ích của nhóm họ : tiền và danh. Hay nói cách khác Việt Nam đã thiếu hẵn một cơ chế chọn lọc các giải pháp kinh tế tối ưu cho đất nước. Đó là nguyên nhân sâu xa để hôm nay mọi người đang chứng kiến sự đổ vỡ trong nhiều lỉnh vực kinh tế và văn hóa với phạm vi cả nước. Nếu chỉ biết chê trách sự điều hành của Chính phủ đương nhiệm hôm nay là không công bằng !
Vậy giải pháp nào tránh những sai lầm trên ?
Tất cả phải bắt đầu từ Hiến Pháp. Khi xã hội thật sự là của dân, do dân và vì dân thì xã hội đó phải do dân lập Hiến và Tòa án Hiến Pháp. Quyền lực gồm bốn quyền phân lập : Quốc Hội lập Luật Pháp, Chính phủ hành Pháp, Tòa án tư Pháp, Thông tin về thực hiện Hiến pháp và Luật Pháp.(Có thể gọi tắt : Lập pháp, Hành Pháp, Tư Pháp và Tin Pháp).
Trước đây khi tin học chưa phát triển, con người mới chỉ nhận thức có Tam quyền phân lập, nhưng thực tiển hiện nay là Bốn quyền phân lập.
Với mô hình trên,mọi thông tin sẽ minh bạch. Từng cá nhân chịu trách nhiệm trước quyết định của mình. Khi quyết định của cá nhân hay nhóm vi phạm luật thì có Tòa án Tư pháp xét sử.
Khi việc Lập Pháp, Hành Pháp, Tư Pháp, Tin Pháp vi phạm Hiến pháp thì Tòa án Hiến pháp xét xử và quyết định.
Quyền lập Hiến là quyền tối thượng của toàn dân và thường căn cứ vào Tuyên ngôn lập nước.Việc thay đổi Hiến pháp phải được trưng cầu dân ý.Với người lảnh đạo cao nhất của
đất nước phải được toàn dân trực tiếp bầu.
Một Hiến pháp thỏa mãn các yếu tố cơ bản trên là con đường đi tất yếu đến một xã hội văn minh. Mọi sai lầm như tàn sát lẩn nhau trong cải cách ruộng đất, quốc nạn tham nhũng, sự sa lầy trong phát triển kinh tế và văn hóa hiện nay đều bắt nguồn từ sự thiếu thừa nhận những nguyên tắc quản trị đất nước một cách văn minh như trên của loài người.
KS Doãn Mạnh Dũng
Hội Biển Tp HCM