“Nếu cần thì đưa ra tòa án quốc tế.” Nguyễn Chí Vịnh

– Thưa Thứ trưởng, sau hội nghị ASEAN, ông nhận định “Đối ngoại Quốc phòng đã đạt đ­ược những thành quả ngoài mong đợi”. Vậy, điều tâm đắc nhất của ông là gì?

– Tôi có 3 ấn tượng. Trước hết, đối ngoại Quốc phòng đã bám sát nhiệm vụ chính trị của Quốc phòng và Quân đội. Đó là tham gia giữ vững môi trường hòa bình để phát triển đất nước, không để nguy cơ chiến tranh tới gần, đồng thời tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.

 
 

Thứ hai, chúng ta đã làm cho thế giới và khu vực thấy rõ một Việt Nam hòa hiếu, yêu hòa bình, có trách nhiệm trong xây dựng tình đoàn kết giữa các nước trên thế giới. Thứ ba, qua quan hệ với các nước, chúng ta tự hào khi thấy vị thế đất nước ngày càng đi lên. Việt Nam có được sự tôn trọng của thế giới, và thể hiện lòng mong muốn hợp tác của các nước bạn, cả bạn cũ và bạn mới.

– Chưa bao giờ đại diện sức mạnh quân sự của nhiều nước đến Việt Nam đông như năm qua. Những khó khăn đối với chủ nhà Việt Nam là gì khi an ninh khu vực xuất hiện liên tiếp các vấn đề phức tạp?

– Năm 2010 chúng ta đã chủ trì 16 cuộc họp ASEAN về Quốc phòng. Nhưng đặc biệt nhất là việc tổ chức thành công cuộc họp Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng lần thứ nhất (ADMM+). Đại diện sức mạnh quân sự của 18 nước trong đó có những cường quốc hàng đầu thế giới về quốc phòng, quân sự như Mỹ, Trung Quốc, Nga, Ấn Độ lại ngồi lại với nhau, bàn về hòa bình. Đây là điều chưa từng có kể từ sau Thế chiến 2 đến nay.

Trong Hội nghị này và cả trong quá trình một năm là nước chủ nhà ASEAN, rất nhiều quan chức quốc phòng của các nước mà cao nhất là Bộ trưởng đã đến với Việt Nam. Trong đó, có những nước là bạn, là đối tác của nhau, nhưng cũng có những nước đang có khác biệt về lợi ích với nhau. Đó là khó khăn cho nước chủ nhà. Mục tiêu mà Việt Nam đặt ra là họ phải có trách nhiệm đối với tình hình chung của khu vực, rồi mới tính đến lợi ích riêng của từng nước.

Về quan hệ song phương, chúng ta chủ trương độc lập tự chủ, quan hệ với từng nước. Chúng ta không can dự vào mối quan hệ và những vấn đề của các nước khác với nhau, đặc biệt là với các nước lớn, nếu không liên quan tới lợi ích của Việt Nam hay hòa bình, ổn định ở khu vực. Chúng ta không đi với nước này, hoặc đồng tình với nước này để chống nước kia. Với quan điểm như vậy, chúng ta đã đạt được điều mà các nước dù có bất đồng, khác biệt, thậm chí xung đột, vẫn phải ngồi lại với nhau, trao đổi với nhau những điều mà thế giới mong muốn đó là hòa bình, luật pháp quốc tế, tôn trọng lẫn nhau.

– Trong bối cảnh 2 cường quốc Mỹ ,Trung còn nhiều khác biệt về lợi ích, là một nước nhỏ cần hợp tác với cả 2 nước lớn, Việt Nam chọn hướng đi nào thưa ông?

– Đây là câu hỏi lớn, có phạm vi rất rộng và toàn diện, và nếu nói cho đúng đây là kế sách bảo vệ Tổ quốc nên khó có thể khái quát đầy đủ trong một câu trả lời. Tôi chỉ có thể nói thế này.

Chúng ta đang đứng ở một khu vực có sự hiện diện rất gần của nước lớn thứ 2 trên thế giới là Trung Quốc. Và khu vực đó cũng có sự hiện diện mang tính trung tâm càng ngày càng trở nên trọng tâm chiến lược hơn của cường quốc số 1 thế giới là Mỹ. Bên cạnh đó có những sự can dự mới nhưng hết sức có sức nặng là Nga, Ấn Độ… Trong khu vực thì chúng ta thấy có những nước đang nổi lên về quốc phòng và quân sự như Nhật Bản, Hàn Quốc…

Đất nước ta có vị trí địa chính trị rất nhạy cảm đối với những mối quan hệ và can dự ấy, nên các nước lớn bao giờ cũng muốn lôi kéo mình về phía họ. Đấy là quy luật.

Tuy nhiên, khi đang đứng trong một khu vực đã, đang và sẽ tiếp tục diễn ra xung đột (và cả thỏa hiệp) lợi ích của nhiều nước lớn cần nhớ một quy luật: “Đỉnh cao của xung đột là thỏa hiệp”. Chúng ta không được để các nước khác thỏa hiệp trên lưng mình.

Sự thỏa hiệp không diễn ra vào một thời điểm nhất định mà là cả quá trình zic zăc. Trong lịch sử, chúng ta nhiều lần bị các nước thỏa hiệp, gây phương hại lợi ích đất nước, thậm chí gây thảm họa, gây ra đổ máu cho nhân dân mình. Những bài học ấy chớ có quên.

Trong quan hệ với các nước, Việt Nam tôn trọng bạn bè quốc tế, mong muốn hợp tác hữu nghị với tất cả các nước, nhưng không bao giờ quên rằng, việc đất nước mình thì mình phải tự lo. Ngược lại, khi nghĩ tới lợi ích của đất nước mình thì cũng đừng quên nghĩ tới lợi ích của họ. Họ có lợi ích thì lúc đó quan hệ của mình với họ mới bền và đáng tin cậy. Có điều, lợi ích ấy không được xâm phạm những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, về độc lập tự chủ, và chủ quyền lãnh thổ, chế độ chính trị…

– Năm qua, biển Đông là một chủ đề nóng đối với dư luận trong nước và quốc tế. Việt Nam tuyên bố tuân thủ nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng hòa bình và đối thoại, nhưng có nước lại cho rằng,Việt Nam đang quốc tế hóa vấn đề biển Đông. Ông có thể bày tỏ quan điểm?

– Nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng hòa bình và đối thoại là đúng nhưng chưa đủ. Nói đầy đủ phải là hòa bình, đối thoại, tôn trọng lẫn nhau và tuân thủ luật pháp quốc tế mà cụ thể là Công ước luật biển năm 1982 và DOC. Ngoài ra, còn một yếu tố quan trọng nữa là công khai minh bạch.

Chủ trương của chúng ta là như thế. Khi nói đến bảo vệ chủ quyền lãnh thổ biển Đông trước hết phải nói hòa bình, tăng cường đoàn kết hữu nghị với những nước đang có tranh chấp với chúng ta vì nếu không thì không thể nào ngồi vào bàn đàm phán “hài hòa lợi ích”.

Nhưng tôi muốn nhấn mạnh điều này, có thể khó nghe: sự tôn trọng, đoàn kết, hữu nghị ấy chỉ có và chỉ thực chất khi Việt Nam mạnh và độc lập tự chủ, Việt Nam đủ khả năng tự bảo vệ mình. Không bao giờ có đoàn kết thực sự khi bất bình đẳng, khi không tôn trọng nhau, muốn chi phối nhau đẩy chúng ta bị lệ thuộc. Đây là yếu tố mang tính chất nội tại, quyết định đến việc giải quyết các vấn đề an ninh của đất nước.

 
 

Yếu tố thứ ba là công khai minh bạch toàn bộ vấn đề để thế giới thấy đúng sai. Công khai minh bạch đối với nước nhỏ là vũ khí để bảo vệ nước đó, là vũ khí để bảo vệ những quốc gia tự tin là mình có chân lý, và chúng ta có chân lý. Những nước không muốn công khai minh bạch trong quan hệ quốc tế chỉ khi họ không đủ lòng tin về cái đúng của chính họ.

Trên cơ sở định hướng phát triển quan hệ quốc tế như vậy, vừa qua một số nước, một số người nói rằng Việt Nam đang muốn quốc tế hóa, đa phương hóa vấn đề biển Đông, lôi nước này để chống nước kia. Để hiểu vấn đề này cần giải đáp hai câu hỏi: Thứ nhất Việt Nam có định quốc tế hóa vấn đề biển Đông thật không? Và những người nói như vậy sẽ định nghĩa thế nào là quốc tế hóa?

Nếu hiểu quốc tế hóa là lôi kéo những nước không có lợi ích chủ quyền vào việc giải quyết vấn đề, làm trọng tài, thậm chí dựa vào sức mạnh của nước này để lấn lướt tạo lợi thế trong đàm phán và xử lý các vấn đề lãnh thổ thì Việt Nam không bao giờ làm thế.

Nhưng việc chúng ta minh bạch trình bày tất cả vấn đề với thế giới, đồng thời lắng nghe ý kiến cộng đồng quốc tế trên các diễn đàn song phương, đa phương thì không thể nói là quốc tế hóa.

Việt Nam chủ trương không quốc tế hóa vấn đề biển Đông mà giải quyết vấn đề biển Đông với những nước có liên quan trực tiếp như Trung Quốc, Malaysia, Indonesia… Nếu chỗ nào liên quan đến hai nước thì hai nước đó bàn, chỗ nào liên quan tới 3-4 nước thì 3-4 nước đó bàn. Chúng ta không lôi kéo nước khác vào cùng đàm phán hay làm trọng tài. Tuy nhiên, việc đàm phán ấy chúng ta yêu cầu tuân thủ luật pháp quốc tế, nếu cần thì đưa ra tòa án quốc tế. Và phải công khai minh bạch.

– Ông nói rằng, khi có tranh chấp, hoặc thậm chí xung đột với nước nào, thì điều đầu tiên cần làm là tăng cường hữu nghị với chính nước đó. Chúng ta sẽ phải cân bằng điều này với nguyên tắc bảo vệ tự chủ, chủ quyền như thế nào?

– Chúng ta đang trong thời bình vì thế phải duy trì bằng được hòa bình và hữu nghị với các nước láng giềng. Kể cả trong thời chiến, đánh thắng cũng để tìm kiếm hòa bình, hữu nghị. Tuy nhiên, hòa bình phải gắn với độc lập tự chủ. Một nền hòa bình lệ thuộc, không bình đẳng, mất độc lập tự chủ, bị xâm phạm chủ quyền lãnh thổ thì không bao giờ chúng ta chấp nhận. Khái niệm hòa bình nếu nghĩ sâu hơn chính là động lực để xây dựng sức mạnh bảo vệ đất nước.

Hòa bình của chúng ta không phải là cầu hòa, Việt Nam không chấp nhận hòa bình lệ thuộc. Khi ta đã làm tất cả những gì có thể để gìn giữ hòa bình mà nước khác cứ muốn xâm hại lợi ích của đất nước ta thì lúc đó, thế của ta sẽ như cánh cung kéo hết, đã buông dây cung thì đó là sức mạnh vô cùng to lớn của cả dân tộc để bảo vệ Tổ quốc mình.

– Vậy trong tình huống phải chọn giữa hòa bình và chủ quyền, ông chọn gì?

– Chủ quyền, độc lập tự chủ trước, hòa bình sau, vì không có độc lập tự chủ, mất chủ quyền lãnh thổ thì còn gì nữa đâu mà nói hòa bình? Quyền tự quyết của một đất nước là điều quan trọng nhất. Bác Hồ nói rồi, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, mọi nỗ lực của Bác là có độc lập, tự do cho dân tộc. Có mối quan hệ giữa chủ quyền và hòa bình, muốn có hòa bình phải có chủ quyền lãnh thổ. Hai cái đó không thiếu được, tôi có một tư duy nhất quán về chuyện này. Hòa bình vừa là động lực để bảo vệ, xây dựng Tổ quốc, vừa là mục đích ta phải giữ. Nhưng chủ quyền phải được đặt lên hàng đầu.

– Ông có tự tin vào tiềm lực của chúng ta để đảm bảo mục tiêu gìn giữ Tổ quốc?

– Tự tin để bảo vệ Tổ quốc trước hết căn cứ xu thế thời đại, mong muốn hòa bình ổn định, đây là xu thế quan trọng nhất. Thứ hai, chúng ta tự tin đủ sức mạnh để bảo vệ Tổ quốc, sức mạnh tổng hợp về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng an ninh… Nhưng quan trọng nhất là lòng dân. Nước ta còn nhiều vấn đề phức tạp, còn nhiều khó khăn nhưng tuyệt đối phải tin vào nhân dân mình.

– Chính sách đối ngoại Quốc phòng của Việt Nam đối với Trung Quốc có thể gói gọn như thế nào?

– Tôi có thể nói ngắn gọn là: tăng cường hữu nghị đoàn kết đồng thời tích cực đấu tranh chủ quyền lãnh thổ. Đấu tranh trên cả phương diện quan hệ song phương lẫn trên các diễn đàn đa phương. Trong quan hệ giữa 2 nước cần tăng cường hiểu biết, giảm xung đột không đáng có, cùng giải quyết mọi phức tạp biên giới, biển…, tăng cường hợp tác đào tạo cán bộ, hợp tác về khoa học công nghệ. Mối quan hệ quốc phòng giữa Việt Nam và Trung Quốc hiện nay đang phát triển tốt, nhưng vẫn còn chậm so với quyết tâm chung của hai nước và cả hai còn phải cố gắng rất nhiều.

 
 

– Vậy còn quan hệ với Mỹ? Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton từng nói “nâng tầm hợp tác Việt Nam”. Hợp tác quốc phòng sẽ được chú trọng như thế nào trong quan hệ 2 nước thưa ông?

– Hợp tác nói chung thì có hợp tác quốc phòng. Đây là điều quan trọng để giữ lòng tin. Quan hệ quốc phòng giữa Việt Nam và Mỹ sẽ được tăng cường trong thời gian tới. Chúng ta hợp tác quốc phòng với mỗi nước khác nhau, với những nội dung và mức độ khác nhau. Với Mỹ trước hết là xây dựng lòng tin. Thứ hai, tạo ra sự tôn trọng lẫn nhau, cả những điểm đồng và cả những sự khác biệt để cùng phát triển.

Có những người hỏi tôi là Việt Nam rất muốn mua sắm trang bị của Mỹ. Liệu bao giờ và với điều kiện nào Mỹ cho phép Việt Nam mua? Tôi trả lời là Việt Nam không có mối quan tâm lớn trong việc mua những trang thiết bị từ phía Mỹ. Nếu Mỹ bán thì tốt, không bán thì Việt Nam vẫn tự lo được bằng khả năng và các mối quan hệ khác. Tôi tin rằng, sẽ có ngày các nhà kỹ nghệ Mỹ sang Việt Nam mời chúng tôi mua và lúc đó chúng tôi sẽ xem xét cái gì cần, tiện lợi và rẻ thì mua. Còn đắt thì không mua. Đây không phải là nhu cầu ưu tiên của Việt Nam.

– Việc mua sắm trang bị khí tài vừa qua được hiểu là chúng ta tăng cường tiềm lực quân sự để bảo vệ chủ quyền hay còn mang ý nghĩa răn đe?

– Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định, Việt Nam mua sắm vũ khí không phải để chạy đua vũ trang. Đây là quan điểm nhất quán. Việt Nam không chạy đua vũ trang vì chạy đua vũ trang là tăng cường tiềm lực nhằm tạo áp lực răn đe đối với nước khác. Ta không tăng cường tiềm lực quân sự theo nghĩa ấy.

Việc mua sắm vũ khí của quốc gia là điều đương nhiên và hết sức cần thiết. Những năm vừa rồi, trong khi nền kinh tế thế giới đi xuống thì kinh tế của Việt Nam lại có bước phục hồi nhanh. Ta trích ra mua tàu ngầm Kilo, máy bay Su-30, hệ thống phòng không hiện đại S300… Sắp tới sẽ tiếp tục mua theo khả năng kinh tế của đất nước, tuy nhiên, tỷ lệ mua sắm Quốc phòng chỉ khoảng 1,8% GDP, vẫn ở mức thấp so với các nước trên thế giới và trong khu vực.

Chủ trương của chúng ta là tiếp tục mua sắm khí tài quân sự, trang bị quân đội cách mạng chính quy tinh nhuệ, hiện đại. Với những quân binh chủng mũi nhọn và những ngành cần thiết như không quân, hải quân, thông tin thì đi thẳng lên hiện đại.

– Ông có thể chia sẻ, điều ông lo ngại nhất là gì?

– Điều tôi lo ngại nhất là một quốc gia bị sự lệ thuộc về chính trị. Bị nước khác chi phối về chính trị thì sẽ dẫn đến mất chủ quyền, mất độc lập tự chủ, mất chế độ xã hội và dẫn đến mất nước. Sự lệ thuộc chính trị có thể đến từ nhiều hướng, theo nhiều cách, trên nhiều lĩnh vực, nếu chúng ta không cảnh giác thì sẽ bị lệ thuộc, mất luôn cả chủ quyền đất nước.

Phạm Hiếu – Nguyễn Hưng